ĐỒ
ĐỰNG DÙNG CHO CHẾ PHẨM
DƯỢC
Đồ
đựng dùng cho chế phẩm dược hay bao bì
đựng thuốc là phần gắn bó hữu cơ
với cấu trúc của dạng bào chế vì chúng giữ
thuốc ở liều lượng mong muốn và
đảm bảo cho thuốc ổn định chất
lượng ở nhiều chỉ tiêu liên quan. Mặt trong
của đồ đựng thuốc do tiếp xúc
trực tiếp với thuốc nên phải được
chọn lựa cẩn thận để khi dùng không
ảnh hưởng tới bản chất, độ
ổn định chất lượng của thuốc
trong quá trình chứa dựng, vận chuyển, bảo
quản dù chỉ là thời gian ngắn. Việc làm kín
như hàn ống thuỷ tinh hay
nút, nắp và xi sáp kín cűng là một phần của
đồ đựng. Những yêu cầu khái quát về
đồ đựng đã được ghi trong mục
những quy định chung. Chuyên luận này cung cấp
những thông tin cần thiết và cung cấp những tiêu
chuẩn cần đáp ứng đối với những nguyên
liệu chính như thuỷ tinh và chất dẻo dùng
để chế tạo bao bì
đựng thuốc.
17.1. ĐỒ
ĐỰNG BẰNG THUỶ TINH DÙNG CHO CHẾ PHẨM
DƯỢC
Đồ đựng bằng
thuỷ tinh dùng cho chế phẩm dược là vật
dụng mà mặt trong của chúng tiếp xúc trực
tiếp với thuốc, nên tuỳ vào bản chất
của thuốc mà chọn loại thuỷ tinh thích hợp
để chế tạo đồ đựng.
Trước khi đóng thuốc, đồ đựng
phải được xử lý đạt độ
sạch theo yêu cầu của từng dạng thuốc
như giới hạn hạt bụi và vi sinh vật …
Đồ đựng thuỷ tinh
có thể là đồng chất như ống tiêm, nhưng
với chai lọ thì phải có nắp nút thích hợp
bằng thuỷ tinh hoặc vật liệu khác, như cao
su, chất dẻo…Nhóm đồ dựng chế tạo
từ thuỷ tinh có nhiều loại như: Chai, lọ,
ống, bơm tiêm...
Chai, lọ đựng
thuốc :
Chai,
lọ đựng thuốc là loại đồ
đựng có thành tương đối dày và
được đóng kín bằng một loại nắp, nút
và các phụ tùng thích hợp. Nút có thể là thuỷ tinh, cao
su hoặc chất dẻo. Những chất đựng
ở trong chai, lọ có thể được lấy ra
dùng một lần ( bao bì đơn liều ) hoặc
nhiều lần ( đồ dựng đa liều ). Chai
lọ có thể in, khắc vạch đánh dấu thể
tích. Riêng với chai đựng thuốc tiêm truyền và các
chế phẩm tương tự phải khắc vạch
đánh dấu thể tích từ 2 hướng lên xuống
theo chiều cao của chai.
Chai
lọ đựng thuốc tiêm phải dùng loại thủy
tinh trung tính phù hợp, trong suốt, không màu hoặc
trường hợp thuỷ tinh có xử lý đặc
biệt có thể làm thuỷ tinh hơi mờ nhưng
vẫn phải giữ mức trong suốt đủ
để quan sát thuốc đựng bên trong .
Chai
lọ bằng thuỷ tinh để đựng thuốc
đặc biệt như khí dung ở áp suất cao
phải được
chế tạo đặc biệt để chịu
áp lực cao của khí đẩy và an toàn như độ
dày hoặc bao bọc chai lọ bằng nhựa .
Chai lọ đựng máu và
những chế phẩm của máu: Là những đồ đựng hình
trụ, có thành dày thích hợp
đáp ứng yêu cầu về độ bền trong
điều kiện sử dụng, có dung tích khác nhau và là
những thủy tinh trung tính, trong, không màu.
Ống tiêm rỗng: Là ống có thành mỏng, đầu và
miệng ống có thể thuôn nhỏ hoặc cổ
bồng miệng loe, miệng ống để hở và
được hàn kín sau khi đã đóng đủ
thuốc.
Thuốc
ở trong ống thường chỉ lấy ra dùng một
lần.
Ống đựng thuốc tiêm
phải dùng loại thủy tinh trung tính phù hợp .
Cũng
có thể sản xuất ống tiêm rỗng đạt
độ sạch theo yêu cầu và hàn kín. Khi đóng
thuốc, ống được đưa vào máy tự
động đốt cắt làm hở miệng ống và
đóng thuốc, hàn kín.
Bơm tiêm đựng
thuốc bằng thuỷ tinh:
Bơm
tiêm bằng thuỷ tinh để đựng thuốc có
thể gặp trong thực tế, theo đó thuốc
được đóng trong bơm tiêm và cung cấp đi
liền với kim tiêm và phụ tùng khác. Đó là loại
đồ đựng đặc biệt dùng cho một
số loại thuốc tiêm phân liều, thuờng ở
dạng lỏng và được đóng gói kín, vô trùng, dùng
một lần .
Chất
lượng của thuỷ tinh:
Thủy
tinh là muối silicat như natri silicat, calci silicat,…
chế tạo bằ ng cách nấu chảy
hỗn hợ p của silic oxid ( Si02 ) v à các chất phụ
gia. Thủy tinh thường trong suốt, không màu.Thuỷ tinh màu là có thêm
một lượng nhỏ oxyd kim loại mà sự lựa
chọn tuỳ thuộc vào sự hấp thụ quang
phổ người ta mong muốn.
Thuỷ
tinh trung tính chứa một lượng đáng kể bo oxyd,
nhôm oxyd thay cho một phần oxyd kim loại kiềm. Do
thành phần khác biệt của chúng nên thuỷ tinh trung tính
có độ bền với nhiệt cao và độ bền
với nước rất cao.
Thuỷ
tinh kiềm chứa oxyd kim loại kiềm, chủ yếu
là natri oxyd và oxyd kim loại kiềm thổ, chủ yếu
là calci oxyd. Với những thành phần như vậy nên
thuỷ tinh kiềm có đồ bền với nước
vừa phải.
Độ
bền hoá học của đồ đựng thuỷ tinh
đối với thuốc được biểu thị
bằng độ bền với nước trong những điều
kiện quy định của thử nghiệm. Khi tiếp
xúc với nước, thuỷ tinh có thể giải phóng,
hoà tan những chất gốc kim loại từ cấu trúc
phân tử của thuỷ tinh nhất là ion natri và ion kim
loại kiềm, kiềm thổ tạo ra dịch có tính
kiềm ít nhiều. Định lượng độ
kiềm này có thể đánh giá được độ
bền với nước của thuỷ tinh, qua đó phân
loại và chọn loại đồ đựng thuỷ
tinh phù hợp với dạng thuốc. Khi thử nghiệm
bằng cách cho nước tiếp xúc với mặt trong
của đồ đựng trong điều kiện quy
định, sau đó định lượng độ
kiềm của dịch, kết quả này gọi là
độ kiềm hay độ bền bề mặt
của đồ đựng. Khi thử nghiệm bằng
cách đập vỡ bao bì bằng thuỷ tinh rồi
lấy lượng chính xác,tán bột và cho tiếp xúc
với nước trong điều kiện quy định,
sau đó định lượng độ kiềm của
dịch, kết quả này gọi là độ kiềm hay độ
bền tổng cộng của vật liệu làm
đồ đựng.
Chuyên
luận này quy định đánh giá độ bền
bề mặt với nước của đồ
đựng thuỷ tinh và được tiến hành
bằng chuẩn độ kiềm giải phóng ra trong
điều kiện xác định.Tuỳ theo độ
bền bề mặt với nước mà đồ
đựng thủy tinh được phân loại theo các
cấp như sau:
Đồ
đựng thuỷ tinh cấp I: Là thủy tinh trung tính có
độ bền với nước cao do thành phần hóa học
của thủy tinh.
Đồ
đựng thủy tinh cấp II : Thường là thủy
tinh kiềm đã xử lý bề mặt thích hợp nên có
độ bền với nước khá cao
Đồ
đựng thuỷ tinh cấp III: Thường là thuỷ
tinh kiềm, chỉ có độ bền với nước
vừa phải.
Đồ
đựng thuỷ tinh cấp IV: Thường là thuỷ tinh
kiềm, có độ bền với nước ở
mức thấp.
Nhà
sản xuất thuốc phải chịu trách nhiệm
chọn những đồ đựng thích hợp cho
từng loại thuốc khác nhau.
Đồ
đựng thuỷ tinh cấp I nói chung thích hợp với
tất cả những chế phẩm tiêm, máu và những
sản phẩm của máu.
Đồ
đựng thủy tinh cấp II nói chung thích hợp cho
những chế phẩm có tính acid hay trung tính dùng để
tiêm.
Đồ
đựng thuỷ tinh cấp III nói chung thích hợp cho
những chế phẩm không có nước hay thuốc dung
môi dầu dùng để tiêm, những bột dùng để
tiêm và những chế phẩm dùng ngoài đường tiêm.
Đồ
dùng thuỷ tinh cấp IV hay gọi là thuỷ tinh
thuờng, chỉ dùng cho những chế phẩm không dùng
để tiêm.
Có
thể dùng thuỷ tinh màu hay không màu cho những chế
phẩm không dùng để tiêm.
Các
thuốc tiêm thường được đóng trong
đồ dựng thuỷ tinh không màu.
Đồ
dựng thuỷ tinh màu cũng
có thể được dùng cho những thuốc tiêm
chứa hoạt chất nhạy cảm với ánh sáng.
Những đồ đựng thuỷ tinh cho chế
phẩm để tiêm dù ở dạng lỏng hoặc
bột đều phải đảm bảo cho việc
quan sát kiểm tra được tính chất cảm quan
của thuốc đựng ở bên trong.
Những
đồ đựng thuỷ tinh cho chế phẩm tiêm
không được đem dùng lại, trừ đồ
đựng thuỷ tinh cấp I, thường là chai,
lọ nhưng phải có những quy định cụ
thể cho vấn đề này. Những đồ dựng
thuỷ tinh để đựng máu và những sản
phẩm từ máu thì không được dùng lại.
Mặt
trong của đồ đựng thuỷ tinh để
đóng thuốc có thể được xử lý
đặc biệt để cải thiện độ
bền đối với nước hoặc tạo ra tính
không thấm nước… nhưng phải chứng minh tính
an toàn của các biện pháp này. Mặt ngoài cűng có
thể được xử lý để làm giảm
độ ma sát và tăng khả năng chống sự mài
mòn, nhưng không để nhiễm bẩn mặt trong.
Khi
những đồ đựng thuốc bằng thuỷ
tinh có những bộ phận không phải thuỷ tinh thì
chỉ áp dụng những thử nghiệm đối
với phần thuỷ tinh của đồ đựng.
ĐỘ BỀN ĐỐI VỚI
NƯỚC CỦA MẶT TRONG ĐỒ ĐỰNG
BẰNG THUỶ TINH
Phép
thử này đánh giá độ bền bề mặt trong
của đồ đựng bằng thuỷ tinh
đối với nước
và chỉ áp dụng cho đồ đựng mới,
chưa qua sử dụng.
Số lượng mẫu thử
nghiệm và thể tích dung dịch cần lấy
để định lượng phụ thuộc vào dung
tích của đồ đựng, theo chỉ dẫn
ở Bảng 1.
Bảng 1. Số lượng mẫu và
thể tích dung dịch cần lấy để
định lượng
Dung tích quy định của
đồ đựng (ml) |
Số lượng mẫu |
Thể tích dung dịch để
định lượng (ml) |
Đến 5 |
Ít nhất 10 |
50,0 |
Trên 5 đến 30 |
Ít nhất 5 |
50,0 |
Trên 30 |
Ít nhất 3 |
100,0 |
Phương pháp thử
Rửa sạch mẫu ngay
trước khi thử nghiệm bằng cách súc với nước cất không có carbon
dioxyd (TT) ít nhất 3 lần. Đổ hết
nước rửa ra và đóng nước cất không có
khí carbon dioxyd vào trong đồ dựng với lượng
quy định. Với chai, lọ thì đậy kín
miệng bằng một đĩa thuỷ tinh trung tính
hoặc giấy nhôm mà trước đó đã rửa
sạch bằng nước
cất không có carbon dioxyd (TT). Với ống thì hàn kín
bằng đèn gas. Đặt đồ đựng đã
đóng đầy nước cất trên vào khay của
nồi hấp, các khay không được chạm vào
nước trong nồi và nước của nồi
hấp phải là nước cất. Đậy chặt
nắp nồi hấp.Điều chỉnh nhiệt độ
của nồi như sau:
Để ở 1000C
trong 10 phút cho khí trong nồi thoát ra hết qua van xả.
Nâng nhiệt độ từ
1000C lên 1210C trong 20 phút.
Duy trì nhiệt độ 121 ± 10C
trong 60 phút.
Hạ nhiệt độ
từ 1210C xuống 1000C trong khoảng 40
phút, thông hơi để tránh chân không.
Lấy mẫu thử ra
khỏi nồi hấp theo các thao tác chung và làm nguội nhanh
mẫu bằng nước thường. Thời gian
tiến hành định lượng trong vòng 60 phút sau khi
lấy ra khỏi nồi hấp. Lấy dung dịch ra
khỏi đồ đựng và trộn lẫn với
nhau. Cho vào một bình nón một lượng dung dịch
đã chỉ dẫn ở bảng 1 . Cho vào bình nón thứ 2
một lượng nước cất không có carbon dioxyd
tương đương lượng dung dịch ở
bình 1 (mẫu trắng). Thêm vào mỗi bình 0,05ml dung dịch đỏ methyl (TT)
tính cho mỗi 25ml dung dịch thử. Định
lượng bằng dung
dịch acid hydrocloric 0,01M (CĐ) cho tới khi chuyển
sang màu tương đương với màu của mẫu
trắng. Số mililit dung
dịch acid hydrocloric 0,01M (TT) dùng để trung hoà
lượng kiềm do đồ dựng thuỷ tinh
nhả vào nước là hiệu số giữa kết
quả của mẫu thử và mẫu trắng và
được gọi là độ bền đối
với nước của mặt trong đồ
đựng, được quy định theo 100ml dung
dịch sau khi hấp và đem định lượng.
Giới hạn quy định cho thử độ bền
đối với nước của đồ
đựng thuỷ tinh đựng thuốc không
được vượt quy định ở Bảng 2.
Bảng 2:
Giới hạn quy định cho thử độ bền
đối với nước của đồ
đựng thuỷ tinh.
Dung
tích của đồ đựng (ml) |
Thể
tích dung dịch acid hydrocloric 0,01M tính cho 100ml dung dịch
thử (ml) |
|
|
Thuỷ
tinh cấp I hoặc cấp
II |
Thuỷ
tinh cấp III |
Đến
1 |
2,0 |
20,0 |
Trên
1 đến 2 |
1,8 |
17,6 |
Trên
2 đến 5 |
1,3 |
13,2 |
Trên
5 đến 10 |
1,0 |
10,2 |
Trên
10 đến 20 |
0,80 |
8,1 |
Trên
20 đến 50 |
0,60 |
6,1 |
Trên
50 đến 100 |
0,50 |
4,8 |
Trên
100 đến 200 |
0,40 |
3,8 |
Trên
200 đến 500 |
0,30 |
2,9 |
Trên
500 |
0,20 |
2,2 |
Ghi
chú:
Lượng nước đóng đủ vào đồ
đựng thuỷ tinh khi thử nghiệm như sau:
Với chai, lọ: Đóng
đến 90% dung tích tràn đầy.
Với ống: Đóng
đến vai của ống hay tương đương
với dung tích của thuốc sẽ đóng vào ống theo
quy định.
Phân biệt thuỷ tinh
cấp I và cấp II:
Số lượng mẫu
thử nghiệm và thể tích dung dịch cần lấy
để định lượng theo chỉ dẫn ở
bảng 1.
Phương pháp thử
Súc sạch đồ
đựng 2 lần với nước cất (TT), sau
đó đóng đầy dung
dịch acid hydrofluoric 4% (tt/tt) và để yên 10 phút
ở nhiệt độ phòng rồi đổ đi, súc
lại đồ đựng bằng nước ít nhất 5 lần.
Tiến hành ngay thử
nghiệm độ bền đối với nước
của mặt trong đồ đựng. Kết quả
thu được đem so sánh theo bảng 2. Mẫu
thuỷ tinh đã xử lý với acid hydrofluoric đạt
cấp độ:
Thuỷ tinh cấp I: Nếu
thể tích dung dịch acid
hydrocloric 0,01M (TT) định
lượng không vượt quá qui định cho thuỷ
tinh cấp I hoặc cấp II ghi tại bảng 2.
Thuỷ tinh cấp II: Nếu
thể tích dung dịch acid
hydrocloric 0,01M (TT) định lượng vượt quá
qui định cho thuỷ tinh cấp I hoặc cấp II,
nhưng không vượt quá dung dịch qui định cho
thuỷ tinh cấp III, ghi tại bảng 2.
Giới
hạn arsen
Áp dụng cho đồ
đựng thuỷ tinh đựng thuốc tiêm dung môi là
nước.
Những ống thuỷ tinh
phải thử nghiệm như sau: Tiến hành thử trên
những ống đã được rửa 5 lần
với nước vừa mới cất. Chuẩn bị
một dung dịch thử như trong thử nghiệm
“Độ bền đối với nước” với
một số ống thích hợp để tạo ra 50ml
dịch thử .
Dùng ống hút để
lấy 10ml dung dịch thử cho vào bình nút mài, thêm 10ml acid nitric (TT) và làm bay hơi cho
tới khô trên cách thuỷ. Làm khô cắn trong tủ sấy
ở 1300C trong 30 phút. Để nguội, thêm vào
cắn 10,0 ml dung dịch hydrazin
molybdat (TT) lắc để hoà tan và đun 20 phút trên cách
thuỷ có ống sinh hàn ngược. Để nguội
tới nhiệt độ phòng. Xác định độ
hấp thụ của dung dịch ở bước sóng
cực đại khoảng 840 nm ( Phụ lục 4.1)và dùng
mẫu trắng là 10,0 ml dung
dịch hydrazin molybdat (TT).
Độ hấp thụ
của dung dịch thử không được vượt
quá độ hấp thụ của dung dịch chuẩn
được chuẩn bị trong cùng điều kiện
bằng cách dùng 0,1ml dung dịch arsen mẫu (10 phần
triệu As) thay cho dung dịch thử.
Thuốc
thử hydrazin molybdat:
Hoà tan 0,1g amoni molybdat (TT) vào 10ml nước có chứa 1,5ml acid sulfuric (TT). Pha loãng thành 90 ml
với nước, thêm 1 ml dung dịch hydrazin sulfat 0,15%(TT)
và thêm nước vừa đủ 100ml.